Ngày 12-4-1959, để kỷ niệm 100 năm ngày mất của cha sở họ
Ars, tại nhà thờ Đức Bà Paris, Đức Cha Fourrey, Giám mục Belley, đă nói một bài
tán tụng trọng thể về thánh Gioan-Maria-Viannây, trong đó Đức Cha đă mô tả những
quấy nhiễu của ma quỷ như sau:
"Tôi không ngần ngại gợi lên đây
những đau khổ lạ thường cứ diễn đi diễn lại trong suốt 35 năm, những đau khổ ấy
chắc chắn phải làm tê liệt việc thi hành tác vụ linh mục nếu ngài chỉ như mọi
linh mục khác.
Ngay khi biết được những quấy nhiễu ấy là do ma quỷ, ngài đă tự trấn an: Vị Thầy
mà ḿnh đang phục vụ th́ mạnh hơn Ma Quỷ. V́ thế, đêm nào những hiện tượng ma
quái đáng sợ ấy xảy ra một cách đặc biệt, th́ ngài c̣n vui mừng nữa. Đối với
ngài, đó là dấu hiệu cho biết hôm sau sẽ có những tội nhân 'cỡ lớn' - những 'con
cá bự' như ngài thường nói - nhờ toà cáo giải của ngài mà trở thành những người
có ân nghĩa với Chúa".
Nhưng vị Giám mục hùng biện đó lập tức cho thấy ngay điều
quan trọng nhất, theo ư kiến ngài, trong sự kiện ma quỷ quấy nhiễu cuộc sống của
một vị đại thánh như thế. Ngài nói:
"Tôi muốn nói tới cái mánh khoé tinh vi hơn của Thần Ác muốn
t́m cách làm cho ngài thất vọng, rồi dùng màu sắc của một sự thánh thiện cao
nhất để tách ngài ra khỏi những chức năng mà Giáo Hội đă trao phó.
Việc cứu rỗi các linh hồn luôn luôn ám ảnh ngài, tràn ngập
tâm hồn ngài, sẽ trở thành một đam mê thánh thiện mà kẻ thù của mọi sự thiện sẽ
dùng nó một cách rất nghịch lư để làm cho ngài mù quáng. Nó muốn đưa người của
Thiên Chúa vào một thảm kịch nội tâm bi đát nhất mà người ta có thể quan niệm
được. Có thể trong khi muốn cứu rỗi các linh hồn, mà v́ dốt nát và bất lực, ngài
có nguy cơ dẫn đưa các linh hồn đến hư mất và cùng chịu trầm luân với họ chăng?
Bổn phận đích thực của ngài chẳng phải là tự xoá ḿnh đi thay v́ trở thành một
linh mục sáng giá, và che dấu mọi bất hạnh to tát của ḿnh trong tĩnh tâm, cầu
nguyện và sám hối sao? Nhưng đây mới là nỗi đau khổ lớn nhất mà ngài đă chịu: đó
là Đức Giám mục địa phận đă ra lệnh cho ngài phải ở lại nhiệm sở, tiếp tục chu
toàn bổn phận, cái bổn phận vượt quá sức ngài, cái bổn phận mà ngài có cảm tưởng
ḿnh đă phản bội".
Không có ǵ làm người ta cảm động hơn là thấy thảm trạng này.
Ma quỷ đă nắm được vị thánh nhờ cái mà người ta gọi là "điểm yếu" của ngài, và
cái "điểm yếu" này trong thực tế lại chính là cái "điểm mạnh" của ngài! Ngài là
một linh mục trung thành, là người đầy t́nh thương và đầy tinh thần phục vụ!
Nhưng ngài cũng là người cảm nghiệm được sự hư không của ḿnh, biết tự hạ ḿnh
trước Chúa Giêsu của ngài. Và ma quỷ lợi dụng ngay chính điểm này, nắm ngay lấy
sự khiêm nhượng này, đưa nó tới một cực đoan nào đó, cực đoan này sẽ biến cái
nhân đức lớn nhất ấy thành một nguy hiểm lớn lao nhất cho linh hồn của vị thánh.
C̣n thủ đoạn nào khéo léo hơn, nguy hiểm đối với nạn nhân mà nó nhắm tới hơn là
thủ đoạn đó? Cần biết thêm rằng điều đă củng cố cho ư định trốn đi của cha sở
thánh này, là ngài tin, cũng như rất nhiều vị linh mục thánh thiện trước ngài và
đồng thời với ngài đă tin, tin rằng nên dành một khoảng thời gian nào đó giữa
thời thi hành tác vụ và giờ chết, để bằng sự thống hối sửa chữa lại tất cả những
thiếu sót về hành động trong suốt cả đời ḿnh.
Đức Cha Fourrey nói tiếp: "Ma quỷ t́m cách đưa cha sở Ars vào
cái bẫy duy nhất mà ngài có thể sa vào. Nó đẩy ngài vào một con đường không phải
là con đường mà Thiên Chúa đă vạch ra cho ngài, bằng cách làm cho ngài phải âu
lo trong lương tâm, tức nơi xảy ra cuộc chiến đấu của ngài.
Sư huynh Athanase nói: "Người tôi tớ của Thiên Chúa đó phải
chịu rất nhiều đau khổ nội tâm. Đặc biệt ngài bị dằn vặt v́ muốn được sống tĩnh
mịch: ngài thường nói về chuyện đó. Ư muốn đó như một cơn cám dỗ ám ảnh ngài ban
ngày, và c̣n nhiều hơn nữa vào ban đêm. Ngài nói với tôi: 'Đêm nào tôi không ngủ
được, là tâm trí tôi luôn luôn đi du lịch: khi th́ ở tu viện Trappe, khi th́ ở
ḍng Chartreuse, tôi muốn t́m một xó xỉnh nào để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn
của tôi, và để thống hối tội lỗi tôi'. Ngài cũng thường nói ngài không hiểu được
rằng tại sao ngài lại không ngă ḷng khi thấy những nỗi bất hạnh của ḿnh. Ngài
rất sợ sự phán xét của Thiên Chúa. Mỗi lần nói đến chuyện đó, ngài sợ run lên.
Ngài khóc và nói rằng mối lo ngại lớn nhất của ngài là sợ tới giờ chết mà lại
ngă ḷng thất vọng. Ngài sợ hăi và lo lắng khi phải mang lấy trách nhiệm mục vụ
của ḿnh. Ngài không muốn chết khi đang làm cha sở. Ngài thú nhận rằng đó là nỗi
sợ khiến cho ngài bị cám dỗ đi trốn lần thứ hai. Ngài nói với tôi: 'Tôi muốn đặt
Thiên Chúa nhân lành ở chân tường để cho Ngài thấy rằng nếu tôi chết trong trách
nhiệm của linh mục, th́ đó không phải là do tôi muốn, mà là v́ Ngài muốn'".
Chúng ta có thể nói: có lẽ ngược lại như vậy, khi sắp đến
thời mà ơn kêu gọi trở nên hiếm hoi hơn, th́ Thiên Chúa muốn dùng gương sáng của
ngài để chứng tỏ rằng một cha sở tốt có thể chết hoặc phải chết "tại trận". Vào
thời của ngài, các linh mục không bị thiếu một cách trầm trọng như thời của
chúng ta. Cuộc đối thoại sau đây giúp ta hiểu điều đó:
-
Tôi sẽ đi khỏi đây!
-
Đức Giám mục không muốn cha đi.
-
Đức Cha không cần tới tôi: ngài đă có đủ người làm cha sở
rồi. C̣n tôi, tôi cần phải có chút ít thời giờ để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn
của tôi, và để thống hối tội lỗi hầu chuẩn bị về với Chúa.
Mẩu đối thoại này xảy ra giữa ngài và Cathérine Lassagne,
cũng như xảy ra với sư huynh Athanase. Chị vừa thuật lại điều đó vừa kết luận:
"Chính v́ thế mà ngài quyết ra đi."
Cha Monnin là người rất rành rọt về mọi chi tiết của đời sống
cha sở Ars, theo cha th́ vị thánh nhân xứ Ars này nh́n nhận rằng có sự bất hợp
lư trong ước muốn của ngài, và ma quỷ đă lợi dụng điều đó để cám dỗ ngài. Và
chúng ta biết rằng ngay từ những năm đầu ngài nhận chức vụ ở Ars, ngài đă phải
nghe hoài câu nói muốn phát khùng của ma quỷ: "Viannây! Viannây! Mi làm ǵ đó?
Hăy cút đi! Xéo đi!". Theo lời chứng của cha Bibot, th́ ngài đă phải nghe lời
của ma quỷ đó ít nhất từ năm 1829. Ta có thể chắc chắn rằng đó là cơn cám dỗ chủ
yếu của đời ngài, và ngài đă chống trả cơn cám dỗ đó một cách can đảm. Tuy
nhiên, có hai lần ngài suưt nhượng bộ cơn cám dỗ, nhưng cuối cùng ngài đă vâng
theo thánh ư Chúa và mệnh lệnh của Giám mục một cách tốt đẹp đến nỗi ngài đă
chết v́ bổn phận như Chúa Giêsu của ngài đă mong muốn.
Đức Cha Fourrey c̣n nói: "Việc ngài muốn trốn hai lần không
phải là những dự tính chống đối bề trên. V́ khi định ra đi, ngài có viết cho Đức
Giám mục địa phận: 'Xin Đức Cha chắc chắn rằng con sẽ trở về khi nào Đức Cha
muốn con trở về'. Nhưng việc báo động về thảm trạng lương tâm của ngài cho toà
giám mục dường như đối với ngài là phương tiện cuối cùng đạt được sự giải phóng
mà ngài khao khát. Cathérine Lassagne đă nhận thấy: 'Ngài tin rằng khi trốn khỏi
họ đạo là ngài làm theo thánh ư Chúa'.
Chỉ sau thất bại trong lần thử trốn đi vào năm 1853, ngài mới
phát giác ra có sự can thiệp của ma quỷ trong những ước mơ đă ám ảnh ngài là
được sống trong sự tĩnh mịch, xa khỏi họ đạo Ars để thống hối ăn năn".
Đó là cuộc chiến đấu gay cấn nhất của cha sở họ Ars chống lại
"Con Quỷ Cào Sắt". Nếu ma quỷ muốn chơi khăm ngài bằng cách tỏ hiện ra một cách
kỳ cục và tức cười, th́ nó cũng biết tỏ ra là một tên cám dỗ đặc biệt sành sỏi
và bạo dạn.